Bài toán chi tiết
Bài 994 (Đề thi Chuyên toán lớp 10 KHTN năm học 2024 - Vòng 2)
| 1 cách giải | Unknow | Độ khó: 3 | Loại: Tự luận | Lượt xem: 1090
BẢN INCho tam giác \(A B C\) nhọn, không cân nội tiếp đường tròn \((O)\), có \(E, F\) lần lượt là trung điểm của các cạnh \(C A, A B\). Điểm \(P\) di chuyển trên cung nhỏ \(B C(P\) khác \(B, C)\). Gọi \(M, N\) lần lượt là giao điểm của các đường thẳng \(P C, P B\) với đường thẳng \(E F\). Các đường thẳng \(A M, A N\) cắt đường tròn \((O)\) theo thứ tự tại \(Q, R(Q, R\) khác \(A)\).
a) Chứng minh rằng tứ giác \(A F P M\) nội tiếp và \(\angle E P F=\angle Q P R\).
b) Chứng minh rằng giao điểm của hai đường thẳng \(Q E\) và \(R F\) nằm trên đường tròn \((O)\).
c) Lấy các điểm \(S, T\) lần lượt thuộc các đường thẳng \(C A, A B\) sao cho ba đường thẳng \(E T, F S, A P\) song song với nhau. Gọi \(K\) và \(L\) lần lượt là tâm đường tròn ngoại tiếp của các tam giác \(N F S\) và \(M E T\). Đường thẳng qua điểm \(K\) vuông góc với đường thẳng \(A B\) cắt đường thẳng qua điểm \(L\) vuông góc với đường thẳng \(A C\) tại điểm \(J\). Chứng minh rằng điểm \(J\) luôn nằm trên một đường thẳng cố định khi điểm \(P\) thay đổi.
Cách giải 1
a) Ta có \(E F \| B C\) nên \(\angle P M F=\angle P C B=\angle P A B\), suy ra tứ giác \(A F P M\) nội tiếp. Chứng minh tương tự, ta cũng có tứ giác \(A E P N\) nội tiếp. Từ đây, ta có
\[ \angle E P F=\angle A P F+\angle A P E=\angle A M F+\angle A N E=180^{\circ}-\angle M A N=\angle Q P R \]
b) Ta có \(\angle P F M=\angle P A M=\angle P R Q\), mà \(\angle E P F=\angle R P Q\), nên hai tam giác \(P F E\) và \(P R Q\) đồng dạng \((\mathrm{g}-\mathrm{g})\). Từ đây, ta dễ dàng suy ra hai tam giác \(P F R\) và \(P E Q\) đồng dạng (c-g-c). Từ đó \(\angle P R F=\angle P Q E\).
Bây giờ, gọi \(L_1\) là giao điểm của hai đường thẳng \(Q E\) và \(R F\). Thế thì tứ giác \(P L_1 R Q\) là tứ giác nội tiếp, từ đó suy ra điểm \(L_1\) thuộc đường tròn \((O)\).
c) Ta có bổ đề sau.
Bổ đề. Cho tứ giác \(A B C D\) nội tiếp đường tròn \((O)\), các đường chéo \(A C\) và \(B D\) cắt nhau tại điểm I. Gọi \(H\) là hình chiếu vuông góc của điểm I trên đuoờng thẳng \(C D\) và \(M\) là trung điểm của đoạn thẳng \(C D\). Các điểm \(N, P\) lần lượt thuộc các đuờng thẳng \(B C, A D\) sao cho \(M N \| A C\) và \(M P \| B D\). Đường tròn ngoại tiếp tam giác \(M N P\) cắt đường thẳng \(C D\) lần thứ hai tại điểm \(K\). Khi đó, \(M\) là trung điểm của đoạn thẳng \(H K\).
Chứng minh. Gọi \(X, Y\) lần lượt là giao điểm của đường thẳng \(M N\) và các đường thẳng \(D I\), \(D A ; Z, T\) lần lượt là giao điểm của đường thẳng \(M P\) và các đường thẳng \(C I, C B\). Ta thấy \(X\), \(Y, Z, T\) lần lượt là trung điểm của các đoạn thẳng \(D I, D A, C I, C B\) và tứ giác \(M H X Z\) là hình thang cân.
Từ \(\angle H X Y=\angle H Z T\) và \(\dfrac{X H}{X Y}=\dfrac{I D}{I A}=\dfrac{I C}{I B}=\dfrac{Z H}{Z T}\), ta suy ra \(\triangle H X Y \sim \triangle H Z T\) (c-g-c). Từ đó \(\angle H Y X=\angle H T Z\). Suy ra, tứ giác \(H M T Y\) nội tiếp.
Chú ý rằng \(N Y \| A C\) và \(P T \| B D\), ta có \(\angle N Y P=\angle D A C=\angle D B C=\angle N T P\). Suy ra, tứ giác \(N P Y T\) nội tiếp.
Gọi \((J)\) là đường tròn ngoại tiếp tứ giác \(N P Y T\). Do \(M\) là trung điểm của đoạn thẳng \(C D\) nên theo định lý con bướm đảo, ta có \(J M \perp C D\). Gọi \(U, V\) lần lượt là giao điểm của đường thẳng \(C D\) và các đường thẳng \(N P Y T\). Áp dụng định lý con bướm thuận, ta có \(M\) là trung điểm của đoạn thẳng \(U V\).
Vì \(\angle N Y T=\angle N P T=\angle U K N\) nên tứ giác \(N K Y V\) nội tiếp. Chứng minh tương tự, tứ giác \(N H Y U\) nội tiếp. Suy ra \(M H \cdot M U=M N \cdot M Y=M K \cdot M V\). Lại có \(M U=M V\) nên \(M H=M K\). Vậy, \(M\) là trung điểm của đoạn thẳng \(H K\). Bổ đề được chứng minh.
Trở lại bài toán, ta xét trường hợp các điểm ở vị trí như trong hình vẽ (xem trang sau), các trường hợp còn lại chứng minh tương tự.
Gọi \(X\) là giao điểm khác \(F\) của đường tròn \((K)\) và đường thẳng \(A B\). Qua điểm \(D\), kẻ đường thẳng vuông góc với đường thẳng \(A B\) tại điểm \(Y\). Gọi \(Z, G\) lần lượt là giao điểm của đường thẳng \(K J\) và các đường thẳng \(A B, E F\). Gọi \(H\) là giao điểm của hai đường thẳng \(L J\) và \(E F\) tại \(H\). Gọi \(U, V\) lần lượt là giao điểm của đường thẳng \(B C\) và các đường thẳng \(O E, O F\).
Áp dụng bổ đề trên, ta có \(F\) là trung điểm của đoạn thẳng \(X Y\).
Do \(\dfrac{F G}{F Z}=\dfrac{B D}{B Y}=\dfrac{D V}{F Y}\) và \(F Y=F X=2 F Z\) nên \(F G=\dfrac{D V}{2}\). Lập luận tương tự, ta cũng có \(E H=\dfrac{D U}{2}\). Do đó \(F G+H E=\dfrac{U V}{2}\). Suy ra \(G H=E F-(F G+E H)=\dfrac{B C-U V}{2}\) không đổi. Tam giác \(J G H\) có các góc khồng đổi và cạnh \(G H\) có độ dài không đổi nên đường cao \(J W\) của tam giác có độ dài bằng \(h\) không đổi. Vậy, điểm \(J\) thuộc đường thẳng song song \(E F\) cách \(E F\) một khoảng bằng \(h\) cố định.